Bệnh KHV (Koi Herpesvirus)
Tác nhân gây bệnh: Do virus có nhân AND, thuộc họ Herpesviridae và có đường kính từ 100 – 110 nm.
Đối tượng chính nhiễm bệnh: Cá chép và cá chép cảnh. Bệnh được xác định ở hầu hết các nước có cá chép tự nhiên hoặc có nuôi cá chép thương phẩm, trong đó có Việt Nam.
Dấu hiệu bệnh: Cơ quan đích: Mang, lách và thận cá. Cá thường nổi đầu, bơi tách đàn, mang bị tổn thương hoại tử có các đốm đỏ hoặc trắng, trên thân xuất hiện nhiều nhớt xuất huyết, có các đốm rộp phồng, các cơ quan bên trong thường bị xuất huyết, bóng hơi sưng, cá bị bệnh ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá.
Mùa vụ xuất hiện bệnh: Cá thường bị bệnh vào mùa xuân khi nhiệt độ nước từ 16 – 280C (ngưỡng tối ưu nhất là từ 21 – 270C).
Giai đoạn: Từ giai đoạn cá giống cho đến cá trưởng thành; tuy nhiên cá dưới 1 tuổi dễ mẫn cảm với mầm bệnh hơn. Bệnh dịch thường lây lan thông qua cá bệnh, nhớt của cá bệnh, nguồn nước… Bệnh này thường gây ra tỷ lệ lan truyền và tỷ lệ chết cao ở cá Koi và cá chép nuôi (Cyprinus carpio). Tỷ lệ gây chết có thể đạt 70 – 80%, thậm chí là 90 – 100% trong quần đàn cá nuôi.
Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR.
Bệnh do virus SCV (Spring Viremia of Carp)
Tác nhân gây bệnh: Bệnh xuất huyết do virus mùa xuân ở cá chép là bệnh mà tác nhân gây bệnh là Rhabdovirus có nhân là RNA, thuộc họ Rhabdoviridae. Virus này có thể tồn tại ở bề mặt bùn đáy ao trong vòng 4 ngày ở nhiệt độ 100C, đặc biệt chúng có thể tồn tại trên 6 tuần trong bùn đáy ao khi nhiệt độ ở mức 40C.
Đối tượng chính nhiễm bệnh: Cá chép và họ cá chép.
Dấu hiệu bệnh: Cá có thể bị nhiễm bệnh ở mọi giai đoạn phát triển. Khi bị bệnh, xuất hiện 1 trong các dấu hiệu: Da cá thường có màu nhợt nhạt hoặc có màu đỏ, xuất huyết trên da và các gốc vây. Mắt lồi, mang nhợt nhạt, thối mang hoặc các tia mang kết dính lại với nhau có màu đỏ không tự nhiên. Bụng chướng to, bóng hơi bị teo một ngăn.
Mùa vụ xuất hiện bệnh: Sự biến động của nhiệt độ, đặc biệt vào lúc giao mùa thường xảy ra ở cuối mùa đông đầu mùa xuân khi nhiệt độ thấp dưới 180C.
Giai đoạn: Tỷ lệ chết của cá ở giai đoạn cá dưới 1 tuổi thường trên 30%, đặc biệt tỷ lệ cá chết có thể lên tới 100%. Nhiệt độ là một trong những thông tin rất quan trọng để xác định cá nhiễm SVC.
Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR.
Bệnh Reovirus trên cá trắm cỏ
Tác nhân gây bệnh: Do Reovirus
Đối tượng chính nhiễm bệnh: Cá trắm cỏ và cá trắm đen.
Dấu hiệu bệnh lý
Dấu hiệu bên ngoài: Da cá màu tối sẫm, cá nổi lờ đờ trên tầng mặt. Khi bệnh nặng cá có biểu hiện mắt lồi, mang nhợt nhạt, nắp mang và vây xuất huyết. Tỷ lệ cá chết cao từ 80 – 100% sau 2 – 3 tuần cá trong ao xuất hiện bệnh. Trong mùa dịch cá giống thường xuất hiện sớm hơn cá thịt với vây đuôi chuyển màu đen, bề ngoài thân màu tối đen, hai bên cơ lưng có thể xuất hiện 2 dải sọc màu trắng.
Dấu hiệu bên trong: Bóc da cá bệnh nhìn thấy các đốm hoặc đám cơ đỏ xuất huyết, bệnh nặng, cơ toàn thân xuất huyết đỏ tươi, đây là dấu hiệu đặc trưng thường thấy của bệnh. Giải phẫu cơ quan nội tạng nhận thấy: Ruột xuất huyết tương đối rõ ràng, một phần ruột hoặc toàn bộ xuất huyết màu đỏ thẫm, thành ruột còn chắc chắn, không hoại tử.
Mùa vụ xuất hiện bệnh: Xuất hiện quanh năm nhưng xuất hiện nhiều nhất ở các tháng giao mùa giữa mùa xuân và mùa hè (tháng 3 – 6), giữa mùa hè và mùa đông (từ tháng 8 – 10).
Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR, nuôi cấy tế bào.
Phương pháp phòng bệnh thường gặp trên cá nước ngọt
Hiện nay chưa có phương pháp hiệu quả để ngăn chặn dịch bệnh do virus. Vì vậy, mọi giải pháp để kiểm soát bệnh này là tập trung vào công tác phòng bệnh, bao gồm: Thực hiện triệt để công tác an toàn sinh học trong nuôi trồng (kiểm tra mầm bệnh KHV/ SVC trước khi thả giống); tăng cường sức đề kháng cho cá bằng vitamin và các hoạt chất tăng cường hệ miễn dịch của cá; giảm thiểu tối đa các hiện tượng sốc do môi trường, do đánh bắt và vận chuyển cá… hoặc sốc do mật độ nuôi cao.
– Sau mỗi vụ nuôi kéo lồng lên bờ vệ sinh lồng bằng cách quét vôi lên khung lồng, lồng lưới được ngâm trong nước vôi sau đó giặt sạch phơi khô.
– Cá giống thả vào lồng nuôi cần phải kiểm tra đầu vào, để loại cá nhiễm mầm bệnh virus.
– Trong quá trình nuôi thường xuyên treo túi vôi hoặc viên TCCA hoặc BKD để khử trùng môi trường nước và tiêu diệt mầm bệnh.
– Định kỳ hàng tháng cho cá ăn Vitamin C hoặc bột tỏi để phòng bệnh và tăng sức đề kháng cho cá với liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì sản phẩm.
– Đối với cá bị bệnh chết cần phải được vớt lên nấu chín, hoặc tiêu hủy chôn với 1% vôi bột, không được vớt cá chết bỏ ra sông, suối dễ lây lan từ vùng nuôi này sang vùng nuôi khác.
Phương pháp kiểm soát khi cá nuôi bị bệnh
– Loại bỏ ngay những con chết và yếu (thiêu/chôn hủy), không vứt bỏ cá bệnh ra ngoài môi trường.
– Nếu là nuôi cá Koi trong bể/hồ nhỏ có thể sử dụng biện pháp nâng hoặc hạ nhiệt để kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ làm cho virus không hoạt động, bản thân virus vẫn tồn tại trong cơ thể cá và sẽ gây bệnh khi nhiệt độ nước quay lại khoảng nhiệt độ phù hợp với mầm bệnh.
– Xử lý môi trường nước bằng phương pháp phun hóa chất xuống ao nuôi hoặc treo túi hóa chất đối với khu lồng bè.
– Đối với cá nuôi bể/lồng: Sử dụng phương pháp ngâm hóa chất để xử lý cá bệnh (theo khuyến cáo của từng loại hóa chất).
– Giảm ăn hoặc cắt ăn.
– Cho cá ăn Vitamin C/chất tăng cường hệ miễn dịch (Beta-glucan), cho ăn liên tục 7 – 10 ngày.
– Có thể sử dụng kháng sinh nếu có hiện tượng cá bệnh bị bội nhiễm vi khuẩn.
Chi cục Thủy sản ST báo điện tử Hội nghề cá VN